Mỗi khi tháng 6 về, những câu hát trong ca khúc Bến Nhà Rồng của
nhạc sỹ Trần Hoàn lại vang lên nhắc nhớ đến một sự kiện lịch sử trọng
đại của dân tộc, gắn liền với địa danh Bến cảng Nhà Rồng – nơi cách đây
111 năm, ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã
lên con tàu Admiral Latouche Tréville, bắt đầu chuyến hành trình tìm
đường cứu nước kéo dài suốt 30 năm, để rồi sau đó đã mang về ánh sáng tự
do cho dân tộc.
“Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước”
Trước cảnh nước mất, nhà tan, chứng kiến sự bóc lột tàn bạo của
thực dân và phong kiến tay sai, nỗi thống khổ của nhân dân lao động,
người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã sớm hình thành khát vọng tìm đường
giải phóng dân tộc và có tầm nhìn độc lập, sáng tạo so với các bậc tiền
bối. Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước, với một quyết tâm cháy
bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả
những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” (1).
Ngày
5/6/1911, tại cảng Sài Gòn, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
(Chủ tịch Hồ Chí Minh) quyết tâm ra đi trên con tàu Đô đốc
Latouche-Tréville để thực hiện hoài bão giải phóng nước nhà khỏi ách nô
lệ của thực dân, đế quốc. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
Và ngày 5/6/1911 với tên mới Văn Ba, người thanh niên Nguyễn Tất
Thành đã lên con tàu Amiral La Touche De Tréville, rời bến cảng Nhà
Rồng, khởi đầu một cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Mục đích của
chuyến đi này, hơn 10 năm sau, năm 1923, Người đã trả lời nhà thơ, nhà
báo Nga Ôxíp Manđenxtan: “Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được
nghe những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Người Pháp đã nói thế và từ thuở
ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm những gì ẩn
dấu đằng sau những từ ấy…”. Một lần khác, trả lời nhà văn Mỹ Aana Luy
Xơtơrông, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra
tôi, lúc này thường tự hỏi nhau, ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách
thống trị của Pháp. Người này thì nghĩ là Nhật, người kia thì nghĩ là
Anh, có người thì nghĩ là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ.
Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi” (2).
Trong vòng 10 năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã tận dụng mọi
cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới. Bàn chân của Người đã in dấu
trên nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt Người đã
dừng chân khá lâu ở Mỹ, Anh và Pháp. Người hòa mình vào cuộc sống của
những người lao động, làm bất cứ việc gì để sống và hoạt động, như: phụ
bếp, cào tuyết, đốt lò, chụp ảnh, làm vườn, vẽ thuê… Nhà thơ Chế Lan
Viên đã tả lại những khó khăn, vất vả này của Người qua những câu thơ:
“Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê/Một viên gạch hồng, Bác chống lại
cả một mùa băng giá/Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ/ Giọt mồ
hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?” (Người đi tìm hình của nước).
30 năm – đó là một hành trình dài với biết bao gian khổ, thử thách
mà Người đã trải qua với mục đích thiêng liêng, cao cả: “Tìm hình của
Nước”. Hình của nước là “Thế đi đứng của toàn dân tộc”; là độc lập, tự
do, là áo cơm, hạnh phúc của nhân dân. Lý tưởng ấy vượt lên tất cả những
liên tưởng thông thường về không gian địa lý (“Một góc quê hương nửa
đời quen thuộc”). Lý tưởng ấy cũng không phải là những mơ tưởng siêu
hình trong sương khói xa xôi mà hiện hữu cụ thể, làm nên giá trị đời
sống con người. Con đường của Hồ Chí Minh là con đường của chủ nghĩa
nhân văn cao cả, phổ quát, hướng đến những quyền lợi căn bản mà tạo hóa
đã ban cho tất cả mọi người trên toàn thế giới (như trong “Tuyên ngôn
Độc lập” mà Người đã nhấn mạnh). Nhưng đó là một con đường chông gai,
trải qua “lửa đỏ và nước lạnh”.
Bến Nhà Rồng, nơi người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Ảnh: TTXVN
“Đây là con đường giải phóng chúng ta”
Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 có ảnh hưởng rất
lớn đến tình cảm và nhận thức của Người. Đầu năm 1919, Người tham gia
Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, với tên Nguyễn Ái Quốc, Người đã thay
mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi bản yêu sách tới Hội nghị
Vécxây yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho nhân dân
An Nam. Tuy bản yêu sách không được chấp nhận nhưng đã được lan truyền
rộng rãi, gây tiếng vang lớn trong dư luận nước Pháp, thức tỉnh tinh
thần đấu tranh của các nước thuộc địa; đồng thời cũng đem lại cho Người
một nhận thức là các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào
sức của chính mình.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp Chủ nghĩa Mác-Lênin qua bản “Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa”. Luận cương của Lênin đến với Nguyễn Ái Quốc như một luồng ánh sáng
mới soi rõ thêm con đường cứu nước mà người thanh niên yêu nước đang
tìm kiếm. Sau này, khi kể lại sự kiện quan trọng đó, Bác nói: “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng
biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà
tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị
đọa đầy đến khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta!” (3)
Tháng
12/1920, người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần
thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông
Dương. Người ủng hộ Luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa;
tán thành việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Với lập trường yêu nước đúng đắn, Người vạch ra chân lý :“muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”. Và “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ”. Kết luận này khẳng định sự chuyển biến sâu sắc trong tư
duy của Nguyễn Ái Quốc, từ người yêu nước chân chính trở thành người
cộng sản – người đảng viên cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá Chủ nghĩa
Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác
phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Kách mệnh”, đặc biệt là
việc xuất bản tờ báo Thanh niên ra ngày 21/6/1925, Người đã chuẩn bị về
đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng. Trong thời gian này,
Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ thông qua
việc lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925) và tổ chức nhiều
lớp đào tạo cán bộ và gửi đi học ở Liên Xô…
Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 3/2/1930, dưới sự
chủ trì của Người, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất 3 tổ
chức Cộng sản đã nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản
được hình thành, con đường cứu nước đúng đắn của Việt Nam đã cơ bản
được xác định.
Người về mang tới những mùa Xuân
Đầu năm 1941, sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Người trở
về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Người chủ
trì Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941), quyết định chuyển hướng chiến
lược cách mạng phù hợp với sự thay đổi mau lẹ của tình hình quốc tế và
trong nước, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tổ chức vận
động, tập hợp lực lượng toàn dân tộc; thành lập Mặt trận Việt Minh; tiến
hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa, tạo nên các cao trào
cách mạng sôi nổi, mạnh mẽ trên phạm vi cả nước
Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí
Minh, nhân dân Việt Nam đã gắn kết thành một khối, phát huy cao độ sức
mạnh toàn dân tộc, làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật
đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa –
Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Tiếp đó, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ
người Việt Nam đã vững bước trên con đường mà Người đã chọn. Đó là con
đường của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mang tầm nhìn
vượt thời gian đưa đất nước và dân tộc ta vượt qua biết bao khó khăn,
thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác – giành độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước; thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tích cực hội nhập quốc tế.
Những thắng lợi đó là minh chứng rõ ràng nhất về những giá trị to
lớn, soi sáng, dẫn đường của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Đồng thời, thể hiện tầm vóc trí tuệ và bản lĩnh của Đảng ta trong việc
vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
của Người không chỉ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc mà
trong cả sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc ngày nay.
Minh Duyên/TTXVN